Được xếp vào bậc “Nhiêu học”
Phạm Công Trứ (1600, có ý kiến cho rằng ông sinh năm 1599 – 1675) người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Cha là Phạm Cai, tri huyện Hoài An ở đạo Sơn Nam, nay là vùng Chương Mỹ, Hà Nội. Mẹ là Nguyễn Thị Liên. Ngay từ nhỏ, Phạm Công Trứ tỏ ra rất ham học, phong độ giản dị, tính tình cương trực và nhân hậu.
Được sự chăm sóc, dạy dỗ chu đáo của cha mẹ, lại được quan Huấn đạo Nguyễn Hiền (người xã An Tháp) cùng huyện giúp, nên hơn mười tuổi, đã nổi tiếng là người giỏi văn thơ. Lớn lên được vào học trường huyện Đường Hào và được xếp vào bậc “Nhiêu học” (tiên tiến xuất sắc bấy giờ).
Sự nghiệp chính trị của Phạm Công Trứ bắt đầu từ khi ông thành công trên đường khoa cử. Năm 29 tuổi, Phạm Công Trứ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), được giao giữ chức Thái Thượng Tự khanh Hàn Lâm hiệu thảo.
Từ đó trở đi, ông lần lượt giữ các chức Hiến sát xứ Thanh Hóa (1631), Phụng Thiên Phủ doãn (1639), Tham chính tự khanh, được tham gia việc nội phủ; năm Dương Hòa, Nhâm Ngọ (1642), được thăng chức Tán lý đạo Sơn Nam coi giữ việc binh.
Trong hai năm Quý Mùi (1643) và Giáp Thân (1644), được lệnh theo chúa Trịnh Tạc đem quân đánh dẹp quân Nguyễn Phúc Lan ở phía Nam và quân Mạc ở phía Bắc.
Do có công, năm Ất Dậu, niên hiệu Phúc Thái thứ ba đời vua Lê Chân Tông (1645), Phạm Công Trứ được giao Phó Đô ngự sử và gia phong tước Khánh Yến bá, sau đó lên chức Ngự sử đài Chính chưởng và Đô ngự sử (1646).
Năm 1657, được phong Đặc tiến kim tử, Vinh Lộc đại phu, Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, hàm Thiếu bảo, tước Yến quận công.
Năm 1660, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ ba, ông dâng sớ xin kiệm ước dùng văn võ, thưởng phạt nghiêm minh, được triều đình chấp thuận và thực hiện.
Khảo đính bộ Đại Việt sử ký toàn thư
Năm Tân Sửu (1661), ông đem đại quân đi đánh Nguyễn Phúc Tần ở Thuận Hóa. Thắng trận, được phong hàm Thiếu Bảo tước Quận công.
Năm Nhâm Dần (1662), niên hiệu Vạn Khánh, triều đình cử trông coi Quốc Tử Giám và làm Tham tụng phủ Chúa Trịnh. Thời gian này, ông còn cho xây dựng bia tiến sĩ tại huyện Đường Hào, khích lệ kẻ có tài, rèn luyện nho phong.
Đầu đời Cảnh Trị (1664), ông được phong Lại bộ Thượng thư. Năm Ất Tỵ (1665), được Tây vương Trịnh Tạc giao cho việc khảo đính bộ sách Sử ký toàn thư.
Phạm Công Trứ cùng các cộng sự dày công nghiên cứu, ông đã dấn từ họ Hồng Bàng đến Ngô sứ quân để làm Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, theo trước tác của Ngô Sỹ Liên.
Ngoài ra, ông đã tham khảo thêm tài liệu dã sử của Đăng Bính và các sách sử đương thời để bổ sung thêm, gọi chung là Đại Việt sử ký toàn thư, gồm 25 tập.
Cũng trong thời gian này ông đã biên soạn bộ sách Bốn mươi bảy điều giáo hóa bổ sung cho luật Hình, xây dựng đạo đức góp phần giữ vững kỷ cương phép nước.
Vào năm Đinh Mùi (1667) và Kỷ Dậu (1669), Phạm Công Trứ cùng chúa Trịnh Căn cầm quân đánh bại quân Mạc tại Cao Bằng, chặn đứng âm mưu của nhà Thanh mượn cớ “Phù Mạc diệt Lê” xâm lược nước ta.
3 lần dâng sớ xin nghỉ hưu
Sau 40 năm phục vụ đất nước, năm Mậu Thân (1668), vua phong chức Quốc lão cho ông, được tham dự các việc cơ mật trong triều. Cùng thời gian này, ông dâng sớ xin nghỉ hưu ba lần mới được nhà vua chấp thuận.
Khi về hưu, được thăng Thái Bảo, chúa Trịnh tặng ông đôi câu đối thêu vào cờ: “Điều đỉnh nại, nhiếp âm dương, triều đình trụ thạch Hoàn quy mô, định hiệu lệnh, quốc gia đống lương.
Nghĩa là: Nêm canh đỉnh vạc, điều hòa khí âm dương, làm cột đá cho triều đình, định ra các hiệu lệnh, hoàn thành được quy mô, là rường cột của nhà nước.
Năm Quý Mùi (1673), triều đình lại mời ông ra làm tể tướng, coi việc 6 bộ, tham tán các việc cơ mật.
Ông mất năm 1675, thọ 76 tuổi. Vua Lê thương tiếc tặng phong Thái tể, thụy là Trung cần. Trọn cuộc đời ông đã góp phần xây dựng triều đình, củng cố đất nước.
Trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn học, sử học, pháp luật, Phạm Công Trứ có những cống hiến quan trọng, quả là rường cột của nhà nước.
Nhận xét về ông, trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: “Ra đương việc nước 49 năm (ông) đặt ra phép tắc, sửa soạn kỷ cương, đè nén những kẻ cậy thế nhũng loạn, yêu chuộng những người có phong cách tiết tháo, có đức tốt, có công lao sự nghiệp, là bậc hiền tài thứ nhất sau đời Trung Hưng”.
Nhiều dấu ấn trong sự nghiệp
Khi đảm đương trọng trách Lại bộ Thượng thư, năm Ất Tỵ (1665), Phạm Công Trứ giao cho Ngự sử đài khảo khoá các nha môn, đã phát hiện sai phạm của nhiều đại thần và tất nhiên, họ đều bị giáng chức.
Những việc làm đó đã khiến cho “pháp lệnh nghiêm minh, sĩ phu danh đua cố gắng, người làm quan lấy phong thái khí tiết mà tự miễn, cho nên được gọi là đời thanh bình.
Trên lĩnh vực kinh tế, Phạm Công Trứ đề xuất thực thi phép Bình lệ (kê khai hộ khẩu tại các địa phương làm cơ sở cho việc bình bổ thuế ngạch), ban hành phép Ngũ lượng nhằm thống nhất các đơn vị đo lường, đong đếm trong nhân gian.
Khi giữ chức Tham tụng, ông đã nêu rõ phép khảo khóa (cất nhắc quan lại), ban điều lệ giáo hóa, khen thưởng người có đức hiếu đễ tốt nghĩa, xét lại sổ đinh điền, định lại ngạch thuế.
Những việc sắp đặt của ông được chúa Trịnh Tạc tín nhiệm, thường theo ý ông để ổn định việc trị an. Người đương thời đều khen ông là một Tể tướng tốt.
Về quân sự, từ khi cuộc chiến Trịnh – Nguyễn nổ ra, trải qua 7 lần đại chiến thì Phạm Công Trứ có đến 5 lần Nam chinh. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn vẫn không phân định được thắng thua.
Do mâu thuẫn trong nội bộ họ Trịnh, năm Ất Dậu (1645), Trịnh Lịch và Trịnh Sầm đã dấy quân phản loạn. Nhờ mưu lược khôn khéo và quyết đoán, Phạm Công Trứ và Đào Quang Nhiêu đã khuyên phủ Tiết chế nên hành sự trước khi chúng tập hợp lực lượng. Kết quả là, nội loạn trong cung đã được dẹp yên, đó là công lớn.
Trên lĩnh vực văn hóa, Phạm Công Trứ có những đóng góp quan trọng. Đầu tiên là ban bố bản Lê triều giáo hóa điều luật (47 điều giáo hóa) nhằm chấn chỉnh tôn ti trật tự trong triều đình, khiến cho các kinh điển của Nho giáo thấm nhuần trong xã hội, làm cho nhân dân trở về với thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc.
Năm Bính Ngọ (1666), Phạm Công Trứ đã dâng biểu tấu nhằm tuyên dương 13 bầy tôi tử tiết thời Lê sơ, phong làm Phúc thần, cho dựng từ đường và phụng thờ hương khói.
Gia tộc vinh hiển
Mở mang Nho học
Là người đứng đầu bộ Lễ, Phạm Công Trứ đã kiến nghị vua Lê, chúa Trịnh sửa sang lễ nghi, triều phục và định thành quy chế rõ ràng cho các quan văn võ đại thần.
Ông cũng quy định phụ nữ và nam giới ăn mặc y phục theo đúng tục lệ truyền thống. Ngoài ra, Phạm Công Trứ cũng nhiều lần tấu xin ra lệnh nghiêm cấm hút thuốc, bởi không chỉ có hại cho sức khỏe mà còn trở thành một vấn nạn trong xã hội lúc bấy giờ.
Đặc biệt, trong chuyến hộ giá vua Lê Thần Tông đi Nam chinh ở Thuận Hóa năm Tân Sửu (1661), Phạm Công Trứ cùng với Trần Đăng Tuyển và Nguyễn Văn Thiệu làm thơ và xướng họa về những thắng tích, những nhân vật nổi tiếng của các địa phương mà đoàn quân đi qua, bao gồm 18 bài.
Đây là những cảm nhận tinh tế, sâu sắc về thiên nhiên đất nước, con người của ông, đồng thời, quan trọng hơn là thể hiện ý chí quyết tâm của đoàn quân trong việc bình ổn và thu phục châu Ô (do nhà Nguyễn ở Đàng Trong chiếm đóng).
Để mở mang nền nếp Nho học, giáo dục kẻ sĩ, tuyển chọn nhân tài cho đất nước, ông phụng mệnh làm Giám thủ Quốc Tử Giám, vừa coi sóc việc trùng tu, tôn tạo Văn miếu Quốc Tử Giám, đồng thời đôn đốc và rèn luyện việc học tập của các học sinh ở Quốc Tử Giám.
Không những thế, ông cùng quan Tham tụng Dương Trí Trạch, dâng sớ xin cung đốn mọi vật cần thiết cho trường thi, đặc biệt là trường thi hương ở các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho học trò học tập.
Khi về quê, ngoài thú vui điền viên, ông còn dạy học, nhiều học trò của ông sau này thành đạt, đỗ khoa bảng cao và đảm nhận những chức vụ quan trọng trong triều cũng như ngoài trấn, như Đặng Công Chất, Nguyễn Công Bích, Đào Công Chính, Lê Hữu Danh, Lê Nhân Kiệt, Lê Sĩ Triệt, Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Viết Thứ…
Gia tộc giàu truyền thống
Trải 50 năm làm quan, Phạm Công Trứ phò tá năm đời vua Lê, hai đời chúa Trịnh, từng giữ nhiều chức vụ và cương vị khác nhau, đã đạt đến đỉnh cao của công danh và quyền lực; là người mưu lược, luôn chăm lo việc nước, tài năng xuất chúng trên mọi lĩnh vực nội trị, văn hóa, sử học, ngoại giao.
Con cháu dòng họ Phạm sau này đã phát huy truyền thống tốt đẹp của gia tộc. Cháu năm đời của Phạm Công Trứ là Phạm Đình Tạc làm Án sát Cao Bằng đã quên mình tử tiết vì nước, được vua phong 4 chữ “Thung dung tựu nghĩa”.
Cháu ngoại Phạm Công Trứ là Dương Thị Huệ, có công nuôi cả gia đình khoa bảng gồm chồng là Lê Hữu Danh cùng ba con trai Lê Hữu Kiều, Lê Hữu Mưu và Lê Hữu Hi đều đỗ tiến sĩ, hiện còn lưu danh ở Văn miếu Quốc tử Giám.
Đặc biệt trong đó, Lê Hữu Mưu là thân phụ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, vị Đai danh y làm rạng rỡ nền y học cổ truyền Việt Nam.
Đền thờ và mộ Phạm Công Trứ được xây dựng ở làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương.
Nay thuộc thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; đền thờ đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 3211/QĐ ngày 12 tháng 12 năm 1994.
Hàng năm hai lần nhân dân địa phương cùng các con cháu dòng họ lại tế lễ, mở hội vào ngày 17 tháng 3 Âm lịch (ngày sinh) và ngày 28/10 (ngày mất), để tưởng nhớ ông.
Nguyễn Thành Trung