387 lượt xem

Nguồn gốc tên gọi Đền thờ Pú Lương Quân

Truyền thuyết được lưu truyền như sau: Một đôi vợ chồng khổng lồ gọi là Báo Luông - Slao Cải, đã có công khai sinh lập địa gây dựng nên non nước Cao Bằng. Ở vùng đất mới, ban đầu là hai anh em, khi còn trẻ đã cao lớn nên người anh gọi là Báo Luông (trai to), người em gái gọi là Slao Cải (gái lớn). Một hôm trời đất sầm tối lại, đen như mực, mưa đổ không ngớt, nước lũ dâng ào ào, mọi thứ đều chìm ngập và thiên hạ không ai chạy thoát. Hai anh em chui vào quả bầu khổng lồ trôi nổi nên đã được sống sót. Khi trời quang mây tạnh, nước rút, quả bầu mắc cạn, chạm vào quả đồi rộng lớn, tiếng Tày gọi là Vạn (đồi Vạn), Luông dìu Cải từ cuống bầu chui ra. Họ ngỡ ngàng nhìn về hướng Tây có một dãy núi cao mà nước không ngập tới. Luông dắt Cải đi tới đó, men đến chân núi thì họ phát hiện có một hang đá to, hang cạn, nước không ngập tới nên được gọi là Ngườm Bốc (nay thuộc xã Hồng Việt, Hòa An). Phía dưới hang Ngườm Bốc còn có một hang đá có dòng nước nguồn chảy ra ào ào trong vắt, gọi là Pác Ngườm, có rất nhiều cá, tôm, cua, ốc rất dễ bắt lấy về ăn ở trong hang để bảo đảm sự sống.

Một đêm, bất chợt giông tố sấm sét đùng đùng đánh vào một thân cây to bốc cháy đen thui, lửa phát ra, có con ốc, con tắc kè ở trong cây chín, mùi thơm lừng nên hai anh em Báo Luông - Slao Cải thấy vậy mới biết dùng lửa và giữ lửa để sưởi ấm, để nướng các con vật ăn chín hằng ngày. Lâu ngày vỏ ốc trong hang Ngườm Bốc đã chất thành đống; nơi phát ra lửa gọi là Lũng Phầy (xã Hồng Việt, Hòa An).


Từ đó, cuộc sống mới đã đến với họ, thế rồi Slao Cải tự nhiên thấy trong người khác lạ, cái thai trong bụng đến ngày sinh nở, từ một bọc thai đẻ ra 100 con, trong đó, 50 trai, 50 gái. Báo Luông - Slao Cải trở thành bố mẹ, nuôi các con bằng nghề săn bắt và hái lượm. Đến khi biết bắt các con thú rừng về chăn nuôi thành gia súc, gia cầm và biết trồng trọt, biết phát hiện ra cây lúa (co khẩu) về trồng thành ruộng lúa, biết dùng hạt thóc chế thành hạt gạo, biết đổ thóc vào cối đá gọi là “dộc” và dùng cây giã gạo gọi là “dộc săm” (cối chày), biết hấp gạo trong lá chuối xuống hố đất rồi đun lửa nấu chín, gọi là “cươm khẩu” (nấu cơm)… Họ chăm sóc các con trưởng thành. Tên đặt của các con sau này trở thành các họ, như: Mã, Lê, Lương, Lâm, Tô, Vũ, Trương, Hoàng, Hà, Nông, Bế, Đoạn, Đàm, Đinh, Đào, Lý… Các con họ tỏa đi sinh sống ở khắp nơi, tên tuổi của họ còn gắn với địa danh từ xưa đến nay ở vùng đất Cao Bằng. 

Báo Luông - Slao Cải (thời trẻ) đến Pú Luông - Giả Cải (thời về già) ở cùng người con họ Bế ở Bản Vạn, xã Bế Triều hiện nay (người dân ở Bản Vạn mang họ Bế từ đó). Sau khi hai ông bà qua đời, để tưởng nhớ công đức sinh thành, các con lập đền thờ trên gò đất bên suối Sẩy (gọi là Tả Slẩy) giữa cánh đồng Bản Vạn. Đến nay, nhân dân địa phương (người Tày) vẫn gọi đó là đền thờ Pú Luông - Giả Cải, hay đền Pú Lương Quân, đền Thần Nông.


Theo cattour.vn