239 lượt xem

NGUYỄN HUY LƯỢNG

Nguyễn Huy Lượng (阮輝諒) là văn thần cuối đời Hậu Lê, quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, sau dời sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội).

Ông đỗ Hương cống, làm quan nhà Lê chức Phụng Nghi, một chức quan nhỏ trong bộ Lễ. Sau làm quan nhà Tây Sơn, đóng góp nhiều công sức với chức Hữu thị lang bộ Hộ (nên thường gọi là Hữu hộ Lương, tước Chương Lĩnh Hầu).

Năm Nhâm Tuất (1802), triều Tây Sơn sụp đổ, ông bị bắt. Ít lâu, ông được nhà Nguyễn thu dụng, làm Tri phủ Xuân Trường. Rồi bị giết trong một trường hợp bức tử vào năm 1808 (theo tác giả bộ Minh đô sử).

Tác phẩm

Sáng tác của Nguyễn Huy Lượng đều viết bằng chữ Nôm, thường là thể phú:

  • Tụng Tây hồ
  • Văn tế trận vong tướng sĩ
  • Bình Tây khúc
  • Cung oán thi
  • Hồi loan khúc

Tụng Tây hồ là một trong các bài phú chữ Nôm có nghệ thuật gồm 86 liên, dụng ý trong bài phú của ông là lấy phong cảnh đẹp của Tây Hồ mà mô tả và ngợi khen nhà Tây Sơn với ngôn từ sinh động đầy thi ảnh, sau cùng là dự tán tụng công đức nhà Tây Sơn.

Tụng Tây Hồ phú

Lạ thay cảnh Tây hồ!

Lạ thay cảnh Tây hồ!

Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi;

Nghe rằng đây đá mọc một gò.

Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang; Long vương trở nên vùng đại trạch,

Sau Kim Ngưu do vào đây hoá vực; Cao vương đào chặn mạch hoàng đô.

Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc;

Cảnh ngầm in tinh chử, băng hồ.

Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo.

Hình lượn lượn uốn vòng trăng bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò.

Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc,

Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa.

Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kể rằng đài thượng nguyệt.

Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô.

Toà thạch tháp nọ nơi tiên để báu,

Chốn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa.

Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ.

Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.

Kề bến nọ, quán Thiên Niên lớp lớp

Cảnh ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô.

Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn.

Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi Vu.

Dấu Bố Cái rêu in nền phủ

Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa

Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích,

Nghe phảng phất ngỡ động Đào mai nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o.

Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút,

Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ì ồ,

Rập rềnh cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm,

Thanh lảnh đầu hồ Cổ ngựa tháp cao tăng còn hé cửa tò vò.

Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng

Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.

Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi canh ghẹo hai phường dệt gấm

Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.

Cầm ve gẩy lầu thư ánh ỏi,

Mõ cuốc khuya án kệ rì rù.

Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái Trúc

Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách giải sông Tô

Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn,

Khách thâu nhàn lai láng từng khu.

Mảnh áo tơi lốp xốp trong mưa, ca Thanh Thảo quyến đàn trâu gã Nịnh

Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc Thương Lương đưa gánh củi chàng Chu

Vầy cuộc ẩn, mọi nghề chẳng thiếu,

Mượn thú vui bốn bạn gồm no.

Cảnh Khán Sơn chưa gác cột cờ, lòng thơ đã bôi hồi ban lãnh thỏ

Làng Võng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô.

Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát,

Người Hy Hoàng song bắc ngáy phi pho.

Bến giặt tơ người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh,

Vườn hái nhị kẻ giày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho.

Ngang thành thị, ghé yên hà một thú,

Dọc phố phường, tung phong nguyệt hai kho.

Gió hiu hiu dòng Nhị thủy đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc

Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trong từng lũ cá, đàn cò. 

 

Phong cảnh cũ nhiều nơi thắng lãm,

Triều đại xưa mấy lớp thanh ngu.

Tựa bóng hoa đặt quán quan ngư, kia đời Gia Khánh

Đè mặt sóng đem đường dụ tượng, nọ thuở Kiền Phù

Trải Trần trước đã nhiều phen xe ngựa,

Tới Lê sau càng lắm độ tán dù.

Trộm nhớ thiên bát vịnh du hồ, trong tỷ hứng cũng ngụ lời quy phúng,

Lại nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm thường thoả ý giao phu.

Toà đá nọ hãi ghi câu canh hoạ,

Dòng nước kia dường nổi chén tạc thù. 

 

Năm sau từ nổi bụi tiêu tường ba thước nước khôn cầm màu hiệu khiết,

Buổi ấy cũng góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khô.

Hình cây, đá, mưa trôi gió giạt,

Sắc hoa, chim, mây vẩn sương mù.

Chốn tri đàm lâm bợn vẻ thanh quang, xuôi ngược những vẫy đuôi khoa đẩu

Nơi phạn vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang treo mắc võng tri thù

Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo,

Đèn viễn thô mấy ngọn lù mù.

Kênh đâu đâu đều chảy đến trung sa, lầu túc điểu gió còn sớm quạt,

Sen chốn chốn đã bay về Tây Vực vũng du ngư nguyệt hãy tối mò.

Kêu trị, loạn, đau lòng con đỗ vũ

Gọi công, tư, mỏi miệng cái hà mô

Lũ cây mây lầm tưởng bóng nghê, thơ Thất nguyệt thở than cùng mục thụ

Khách điếu nguyệt biếng tìm tăm cá, chữ Tam mô bàn bạc với tiều phu

Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng,

Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò.

Thú cao lưu chếch mác thế cờ, người nhạo thủy ôm cầm khi rạng quế,

Màu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu, khách đăng đài gác bút buổi bay ngô

Chiêu phong vị xem dường quạnh quẽ,

Dấu đồ thư ngắm hãy mơ hồ.

Dưới cầu vồng nước chảy mênh mông, đường xưa đưa ngựa,

Trên thành trĩ đá xây lởm chởm, bến cũ gọi đò. 

 

Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vừng trăng he hé,

Sau cổ tự gửi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù.

Lớp canh dịch người xưa man mác,

Vẻ tiêu lương cảnh cũ thẹn thò.

Áng phồn hoa vì cảnh muốn phô người, người trải khi vật đổi sao dời, cảnh phải chiều người buổi ấy,

Trời thanh lãng có người mến cảnh, cảnh có sẵn nước trong trăng sáng, người nên phụ cảnh này ru? 

 

Vầng trăng nọ buổi tròn buổi khuyết;

Ngọn nước kia nơi hoắm, nơi nhô

Tới Mậu Thân từ rõ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch;

Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu

Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;

Nơi đình đài hoa phới phới đua.

Chốn bảy cây, còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão;

Nơi một bến đã đóng đoàn hý thủy, tới uyên ương đều thỏa tính trầm phù.

Vẻ hoa thạch châu thêu, gấm dệt,

Tiếng trùng cầm, ngọc gõ, vàng khua.

Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi;

Làn nước phẳng kình trầm, ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò

Mặt đất đùn này thóc, này rau, rầu lòng Cô Trúc,

Mặt nước chảy nọ dòng, nọ bến, mặc chí Sài, Do.

Cây quán kia còn đứng dậy thần uy, đoàn Mán tới dám khoe lời “Tây hữu”

Sen chùa nọ lại bay về Phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ Nam mô. 

 

Dấu linh dị rành rành vẫn sáng,

Mạch hậu nhân dằng dặc bao rò.

Mặt thành xưa đem lại thế kim thang, đất xây phẳng lặng;

Cánh hàn cũ sửa ra hình chỉ trụ đá xếp xô bồ.

  

Ghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu, cảnh tuy rằng nhỏ;

So nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã chi thua.

Trải mấy thu từng tựa bóng tàn xanh, thâu cảnh đã vào trong vũ trụ.

Song nghìn dặm đã xa vời bệ tía, góp cảnh còn gọi chốn biên ngu, 

 

Tuy thú vị đã giãi bày ra đó

Sóng thanh dung còn trang điểm lại cho.

 

Nay mừng

Trời phù chính thống,

Đất mở hoành mô.

 

Quyền tạo hoá tóm vào trong động tác;

Khi càn khôn vận lại trước đô du

Nền hoàng thành đặt vững Long Biên, ngôi bắc cực muôn phương đều cùng hướng;

Nền bắc trạch xây kề Ngưu chử, cảnh Tây hồ trăm thức lại phương phu

Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm,

Ánh tường vân đà cách độ tua rua.

Ngắm nguyệt, chiêm từ cấn tượng bốn hào, ống âm dương đà quét bụi;

Xem tuế luật đến Di tân bảy tấc, lò thiên địa mới bay tro

Cơ vãng phục lạnh thôi lại ấm;

Lẽ doanh thâu bớt đã lại bù.

Dưới lục âm vừa sinh khí nhất dương vạn phẩm đã nhờ ơn khôn tạo;

Trên cửu đạo lại tề ngôi thất chính, bốn mùa đều theo hướng đẩu khu.

Hương khâm kính xông miền hiệu đãng

Rượu cung kiền thấm cõi linh u.

Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca công Thang, Vũ;

Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc, điểu thú đều vũ đức Đường, Ngu.

Vẽ hoa lẩn dấu cờ năm thức,

Mặt nước in bóng giáo ba ngù.

Trước huân phong phảng phất cung đàn, làn thâm thủy muốn vái lên ngũ bái,

Dưới ngọ nhật vang lừng tiếng trúc, hình viễn sơn mong rạp xuống tam hô.

Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy,

Phong cảnh này mấy thuở nào so.

Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, giọt vũ lộ tươi đôi hàng uyên lộ;

Gần xa cũng bờ cõi non sông một mối, tấm đan thành dung khắp lũ nghiêu sò

 

Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo,

Áng tường quang tuôn trước ngọn huyền lô.

Rặng đầu ghềnh người mượn chữ vu viên răn loài hồng nhạn;

Ca cuối vũng kẻ ngâm tại chử, nhủ lũ ê phù.

Lời ca ngợi, tưởng ngồi trong Chu Nhã

Điệu ngâm nga, nghe đứng giữa Nghiêu cù

 

Ngẫm nay đà vui thú tạc canh, đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu;

Nhớ trước đã thỏa loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt quỷ êm hồ.

Nay lệnh tiết đã tin điềm thái lãng;

Xin thánh nhân càng ghín chữ dự du

Ngọn nguồn tuôn ràn rụa mái kia ghềnh, đàn chiếu thủy chia dòng Kinh, Vị;

Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân, do

Nhận giá sắc, xét dân phong cần, nọa;

Ngắm phong quang, soi vật tính thanh, ô.

Chốn chiểu đài, xem cá nhảy chim bay, thâu sĩ lộ nơi thông nơi trệ;

Miền thôn ổ, lắng chim kêu gà gáy, lượng nhân gian nơi háo, nơi trù.

Tinh u uẩn khắp bày trên thị thính,

Hiệu trị bình đành sắp dưới tề tu.

Nơi mạch kia dân tựa, ấy làm trời, hang chuột ẩn há chừa nơi cỏ khuất.

Bờ liễu nọ kẻ xây, đà vững đất, lỗ kiến đùn khôn chuyển buổi nguồn xô

Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ,

Mở thái bình ra bốn bể mới to.

 

Tôi nay

Hổ mình thiển lậu,

Dại trí sơ thô

Dư một kỷ yên bề hu lịch

Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.

Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương ly ngữ

Bên ngự đạo ngửa trông vừng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỷ dao đồ

[Tụng Tây Hồ phú- Bản phiên âm quốc ngữ của Thư viện Khoa học (ký hiệu AB299) - Dẫn lại theo sách Thăng Long- Hà Nội ngàn năm văn hiến]

Nguồn: http://mobile.coviet.vn