Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Chích là đại công thần khai quốc của nhà Lê Sơ. Nguyễn Chích sinh năm 1382 và mất năm 1448, người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo khổ nên thuở ấu thơ đã phải đi ở đợ chăn trâu cho những nhà giàu vùng Hoàng Sơn và Nghiêu Sơn.
Khi quân Minh xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo bị thất bại, Nguyễn Chích đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa khá lớn ở ngay vùng Hoàng Sơn và Nghiêu Sơn. Ông đã lập nên một khu căn cứ rất lợi hại và sử cũ có ghi chép về khu căn cứ Hoàng - Nghiêu. Ở đấy, lực lượng của Nguyễn Chích đã có lúc lên tới hơn một ngàn người. Ông đã từng cho quân đi đánh phá khắp các vùng Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn và những vùng lân cận... khiến quân Minh phải nhiều phen khốn đốn.
Khi Lê Lợi xướng nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Chích rất lấy làm hồ hởi. Hai nghĩa quân của Lê Lợi và Nguyễn Chích đã nhanh chóng phối hợp với nhau để cùng chống kẻ thù chung. Cuối năm 1420, khi Lê Lợi đóng quân tại Mường Nanh, Nguyễn Chích đã đem toàn bộ lực lượng của mình về tự nguyện đặt dưới quyền chỉ huy của Lê Lợi. Ông được Lê Lợi phong làm Thiết Đột Hữu Vệ, Đồng Tổng Đốc Chư Quân và trực tiếp chỉ huy một đạo quân quan trọng của Lam Sơn. Sau đó, ông được thăng chức Nhập Nội Thiếu Úy là một trong những chức võ quan cao cấp nhất lúc bấy giờ.
Sự hội nhập của hai lực lượng Nguyễn Chích và Lê Lợi là một bước tiến quan trọng của phong trào Lam Sơn nói riêng và sự nghiệp chống quân Minh đô hộ nói chung. Đối với Bộ chỉ huy Lam Sơn, thêm Nguyễn Chích không phải chỉ đơn giản là thêm một người giàu nghĩa khí mà thực sự là thêm một dũng tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc, thêm một bộ óc chiến lược tài ba. Chính Ngyễn Chích là người đã có công tạo ra bước ngoặt lịch sử cho phong trào Lam Sơn vào cuối năm 1424.
Tháng 10 năm 1424, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có một cuộc hội nghị quân sự rất quan trọng. Hội nghị đã quyết định chấm dứt thời kỳ hòa hoãn với quân Minh và chủ động tấn công để từng bước làm thay đổi tương quan thế và lực của đôi bên. Tại hội nghị này, Nguyễn Chích đã trình bày một ý kiến rất xuất sắc, được Bộ chỉ huy Lam Sơn nhiệt liệt tán thành. Sử gọi đó là chiến lược Nguyễn Chích.
Nội dung ý kiến của Nguyễn Chích là: Lam Sơn phải nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động, phải chiếm cho kì được một vùng đồng bằng rộng lớn mới có thể huy động được sức người và sức của cho cuộc chiến đấu lâu dài. Vùng đồng bằng rộng lớn mà Nguyễn Chích đề nghị chính là Nghệ An. Về mặt lý luận, Nguyễn Chích cho rằng, Nghệ An là nơi xa, lực lượng của quân Minh vừa ít lại vừa yếu, khả năng chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn rất rõ ràng. Nghệ An là nơi tiếp giáp với Thanh Hóa, rất tiện lợi cho cuộc tấn công của nghĩa quân Lam Sơn.
Về mặt thực tiễn, Nguyễn Chích cũng nói ông từng có dịp qua lại vùng này, nắm vững đường đi lối lại nên có thể làm tướng tiên phong dẫn đường cho Lam Sơn. Trên cơ sở ý kiến của Nguyễn Chích, cuối năm 1424, cuộc tấn công bất ngờ của Lam Sơn vào Nghệ An bắt đầu. Trong vòng một thời gian rất ngắn, Lam Sơn đã liên tiếp giành được nhiều thắng lợi vang dội và Nguyễn Trãi đã viết trong “Bình Ngô đại cáo” như sau: Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật; Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Lời bàn:
Với tài năng và đức độ của mình, không chỉ có người đương thời, mà hậu thế ngày nay cũng đều tôn vinh ông là một danh nhân, danh tướng của nước Việt. Chính vì những đóng góp lớn lao của mình trong sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh nên sau khi Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi, lập ra nhà Hậu Lê thì đến năm 1429, Nguyễn Chích được phong tước Đình Thượng Hầu, ban cho họ Lê của vua. Từ đó, ông được gọi là Lê Chích. Trong sách Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn ca ngợi ông như sau: Bầy tôi có ông khai quốc, kể về bậc tài trí cần lao không phải là hiếm nhưng sở dĩ vua Lê Thái Tổ đã bình định được cả nước là do mưu chước của Lê Chích... Không cần phải đánh mà được thành Đông Đô, lấy hòa hiếu để kết thúc chiến tranh. Tuy là mưu kế của Nguyễn Trãi nhưng trước hết làm cho căn bản mạnh để thu thắng lợi hoàn toàn thực chất là bắt đầu từ Lê Chích.
Tiếc rằng, một đại công thần với những kế sách tuyệt hảo và những chiến công lừng lẫy như vậy nhưng chỉ trong thời gian đầu sau ngày thắng lợi, Lê Chích được tham gia triều chính, sau đó ông bị Lê Lợi cách chức. Vì sử sách không ghi rõ nên đến bây giờ, các nhà nghiên cứu không ai biết rõ về tội lỗi của ông. Nhiều ý kiến cho rằng, việc ông bị cách chức là do sự nghi ngại công thần của Lê Lợi. Mặc dù vậy, chỉ riêng với lời ca ngợi trên đây về ông của Lê Quý Đôn cũng đã là quá đủ để hậu thế biết công lao của ông đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tên tuổi, sự nghiệp của ông sẽ còn mãi mãi trong lịch sử dân tộc.
Giai thoại về Nguyễn Chích
- Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, thời gian đầu dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Chích lập căn cứ tại núi Hoàng và núi Nghiêu. Đây là khu vực địa thế hiểm yếu, nhiều hang động, đường đi hiểm hóc nên quân Minh không dám đem đại quân đến đàn áp. Để chiêu hiền đãi sĩ, anh hùng hào kiệt đến tụ nghĩa, Nguyễn Chích đã chọn động Chân Nghĩa ở núi Nghiêu làm nơi tiếp đón.
Về chuyện đời tư của Nguyễn Chích, mối tình của ông đến rất tình cờ. Đó là khi Nguyễn Chích vẫn là người đứng đầu lực lượng khởi nghĩa ở vùng núi Hoàng và núi Nghiêu, anh hùng nhân sĩ cùng chí hướng tìm đến tham gia khá nhiều. Chuyện xưa kể lại rằng: Một hôm, khi ông đang ở trong doanh trại thì nghe nghĩa binh vào báo rằng có một tráng sĩ trẻ xin gặp chủ tướng. Khi người đó bước vào, Nguyễn Chích thấy là một chàng trai dáng người nhỏ nhắn, thư sinh tưởng chừng trói gà không chặt, ông liền cất tiếng hỏi: Anh có tài năng gì, vì sao lại tìm đến đây?
Tráng sĩ đáp bằng giọng nói nhỏ nhẹ nhưng cương quyết và rất ngắn gọn: Tôi vốn học võ từ nhỏ, nay vì căm thù giặc nên đến xin đầu quân.
Nguyễn Chích liền nói: Anh đã nói như vậy, giờ hãy trổ tài cho ta xem.
Sau đó, ông mời tráng sĩ ra ngoài tỷ thí võ nghệ với một bộ tướng của mình, không ngờ chỉ một thoáng, qua vài đường võ thuật tráng sĩ trẻ đã đánh ngã viên tướng kia. Tiếp sau thì lần lượt hạ hết tướng này đến tướng khác khiến cả doanh trại từ chủ tướng Nguyễn Chích đến nghĩa binh ai nấy đều kinh ngạc, khâm phục. Thấy người đó tuổi trẻ tài cao, Nguyễn Chích rất mừng bèn thu nhận vào đội quân của mình. Từ đó, qua việc quân hằng ngày, để ý thấy tráng sĩ kia có điều gì khác hẳn với mọi người, ông nghi ngờ vì dáng vẻ thùy mị, khuôn mặt, làn da, vóc dáng, đi đứng, bàn tay nhỏ nhắn; tất cả như những đường nét của một người con gái.
Quyết tâm giải đáp những thắc mắc của mình, Nguyễn Chích liền cho tổ chức một cuộc thi đấu vật cho toàn quân, lệnh ban ra ai cũng phải tham dự. Lúc đó, tráng sĩ trẻ kia tìm cách từ chối khéo, thế nhưng trước mệnh lệnh và sự thúc ép của binh tướng, ở vào cảnh không thể làm sao được nữa, tráng sĩ kia đành thú thực với Nguyễn Chích rằng mình là gái giả trai, tên Nguyễn Thị Bành. Và không lâu sau, vốn phục tài đức của nhau, Nguyễn Chích đã lấy Nguyễn Thị Bành làm vợ và phong làm phó tướng. Người vợ này trong giỏi nội trợ, ngoài tường binh thư kiếm pháp, đặc biệt lại cũng có tài nuôi chim bồ câu giống như chồng.
Từ nhỏ, Nguyễn Chích đã được cha truyền nghề nên ông có biệt tài nuôi chim bồ câu rất giỏi. Bồ câu được dạy một cách khéo léo, để xem khả năng của mỗi con, người ta đặt một chậu nước giữa sân, rồi cho chim tung cánh lên trời. Những con chim nào dạy khéo sẽ bay rất thẳng, đến nỗi, bay cao lên tít mây xanh mà bóng chim vẫn in trong chậu nước. Nguyễn Chích đã tập cho đàn chim của ông bay khéo như vậy và còn luyện cho chúng mang thư từ và đồ nhẹ đến nơi định sẵn và bay trở về.
Bấy giờ Nguyễn Thị Bành trở thành trợ thủ đắc lực cho chồng trong việc huấn luyện đội quân chim bồ câu. Không chỉ vậy, nàng còn nhiều lần tham gia chiến trận, đáng kể nhất là trận giữ thành Yên Mỗ. Tòa thành này là một trong những địa điểm quân sự do Nguyễn Chích xây dựng, ở vị trí hiểm yếu nên quân Minh rất muốn triệt hạ. Tướng giặc là Trương Phụ có lần huy động một lực lượng khá đông đến vây hãm, Nguyễn Thị Bành đã cùng chồng chỉ huy quân lính đánh cho quân giặc một trận thất điên bát đảo, giữ vững căn cứ.
Khi Nguyễn Chích gia nhập với quân khởi nghĩa Lam Sơn, ông cùng vợ mang toàn bộ binh sĩ và cả đàn bồ câu đi theo để giúp việc truyền tin. Có lần căn cứ Lam Sơn bị đánh úp, ở doanh trại chỉ có Lê Lợi và Nguyễn Chích cùng mấy trăm quân túc vệ. Giặc Minh ở ngoài vây rất chặt, khó có thể phá được vòng vây hay cử người đi báo tin giải cứu. Nguyễn Chích liền thả chim bồ câu đi đưa thư gọi được các cánh quân về cứu viện, trong đánh ra, ngoài đánh vào làm cho vòng vây của giặc tan vỡ.
Lời bàn:
Với những tài liệu lịch sử còn lưu truyền đến ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng, nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi và đây là đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, không phân biệt đẳng cấp, già trẻ, nam nữ... Và góp phần vào chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, có những công lao to lớn của những người phụ nữ, đó là các bà vợ của Lê Lợi, vợ của tướng quân Nguyễn Chích.
Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá cho hậu thế. Tiếc rằng, chính sử không nhắc gì đến người vợ tài năng của Nguyễn Chích, nhưng sự nghiệp của ông có sự đóng góp ít nhiều của người vợ hiền Nguyễn Thị Bành. Mặc dù vậy, song người đương thời và hậu thế không bao giờ quên công lao ấy của bà.
Nguồn: baobinhphuoc.com.vn
Nguyễn Chích: Thủ lĩnh khởi nghĩa đến nhà chiến lược tài ba cùng “đội quân chim” có một không hai
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn có nhiều tướng lĩnh xuất thân từ dân nghèo và Nguyễn Chích là một trong số đó. Nhưng điều đặc biệt ở ông chính là tư duy chiến lược tài ba và đội quân chim độc lạ.
· Tây Sơn thất hổ tướng (Kỳ 2): Trần Quang Diệu – Trung thần không thờ hai vua
· Tây Sơn thất hổ tướng (Kỳ 1) : Võ Văn Dũng – Vị tướng trừ ác, diệt gian
· Những trận đánh xuất quỷ nhập thần của “độc nhãn tướng quân” huyền thoại Việt Nam
Nguyễn Chích – Dũng tướng đa tài, tiên phong khởi nghĩa, tự nguyện dưới quyền
Nguyễn Chích (1382 – 1448), theo Đại Việt sử ký toàn thư, quê ở Đông Ninh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, xuất thân trong một gia đình nông dân và ông sớm mồ côi, phải đi ở làm nghề chăn trâu
Nguyễn Chích (1382 – 1448), theo Đại Việt sử ký toàn thư, quê ở Đông Ninh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Theo gia phả dòng họ Nguyễn ở Đông Hòa (Đông Sơn, TH), dòng họ này là hậu duệ của một tôn thất nhà Lý, chạy “Loạn Tam Vương” năm Mậu Thìn (1028), vào Thanh Hóa rồi cải sang họ Nguyễn. Nguyễn Chích xuất thân trong một gia đình nông dân và ông sớm mồ côi, phải đi ở làm nghề chăn trâu.
Năm Bính Tuất (1406), giặc Minh sang cướp nước ta. Nhà Hồ không được lòng dân nên sớm bại trận. Nhân dân Đại Việt đứng liên tiếp đứng lên khởi nghĩa nhưng yếu thế nên đều thất bại. Cả đất nước lầm than trước ách áp bức khốc liệt của nhà Minh. Sau khi kháng chiến của vua Trần Quý Khoáng thất bại (1413), khoảng năm 1415, Nguyễn Chích đã chiêu mộ quân sĩ, đứng lên khởi nghĩa. Căn cứ đầu tiên của ông ở Vạn Lộc (Đông Sơn). Từ Vạn Lộc, nghĩa quân đánh ra các vùng xung quanh, cả huyện Đông Sơn quân Minh không dám đến cướp phá.
Sau một thời gian ở Vạn Lộc, lực lượng phát triển, Nguyễn Chích liền tiến quân đánh chiếm Hoàng Sơn – Nghiêu Sơn là là các dãy núi đá nằm giáp giới ba huyện Nông Cống, Đông Sơn và Quảng Xương. Dựa vào địa hình có vách núi dựng đứng và sông Hoàng chảy qua, nghĩa quân xây đá nối các ngọn núi với nhau, tạo thành một thành lũy vững chắc, công thủ đều lợi hại. Từ căn cứ này, Nguyễn Chích mở rộng phạm vi hoạt động ra vùng lân cận. Sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Hiệu lệnh của ông được thi hành ở các huyện Đông Sơn, Nông Cống và Ngọc Sơn”.
Năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi phát động khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi sai người đưa thư liên kết với Nguyễn Chích. Nguyễn Chích đồng ý về theo Lê Lợi, tôn phù Lê Lợi là minh chủ và coi cuộc khởi nghĩa của mình là một bộ phận của khởi nghĩa Lam Sơn, tự nguyện chấp nhận sự chỉ huy chung của Lê Lợi. Nguyễn Chích đã yết kiến Lê Lợi nhưng thời gian đầu vẫn đóng quân ở Hoàng Nghiêu và phối hợp hoạt động với đại quân Lam Sơn.
Sau trận thắng Cổ Vô, đánh tan Lương Nhữ Hốt, giải phóng cả vùng Đông Sơn, Lê Lợi phong cho Nguyễn Chích chức Vinh lộc đại phu Lân hổ vệ tướng quân; sau đó lại phong tiếp là Đô đốc đại phủ quản tổng đốc quân dân, tước Quan nội hầu.
Năm Canh Tý (1420), khi Lê Lợi đóng quân ở Mường Nanh, Nguyễn Chích đem toàn bộ lực lượng của mình hội với quân Lam Sơn. Nguyễn Chích được giữ chức Thiết đột hữu vệ đồng tổng đốc chư quân sự, chỉ huy một đạo quân xung kích quan trọng của đội quân Lam Sơn.
Từ đó cho đến năm Quý Mão (1423), Nguyễn Chích tham gia nhiều trận đánh quan trọng, “xông pha nơi lửa đạn, liều chết không quản mình” (Văn bia Quốc triều tá mệnh công thần), lập nhiều chiến công và được thăng chức Nhập nội thiếu úy, là chức tướng lĩnh cao cấp của nghĩa quân Lam Sơn.
Vậy là từ thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hoàng Nghiêu, do có tầm nhìn xa, tiên đoán được thế sự, biết rõ thực lực của khởi nghĩa Lam Sơn và tài năng lãnh đạo của Lê Lợi, biết đặt lợi ích toàn cục của công cuộc chống giặc cứu nước, ông đã nhận lời liên kết và tự nguyện sát vai cùng Lê Lợi.
Nguyễn Chích sở hữu tầm nhìn viễn kiến chiến lược, xoay chuyển cục diện cuộc chiến
Nguyễn Chích sở hữu tầm nhìn viễn kiến chiến lược, xoay chuyển cục diện cuộc chiến
Thời kỳ đầu, nghĩa quân chủ yếu hoạt động ở vùng rừng núi Thanh Hóa, quân ít, lương thiếu nên thắng ít thua nhiều, bị quân Minh cùng với quân Ai Lao và các tù trưởng miền núi vây đánh nhiều trận, 3 lần phải rút chạy lên núi Chí Linh và một lần cố thủ ở Sách Khôi.
Năm Nhâm Dần (1422), Lê Lợi chủ động giảng hòa chờ thời cơ. Năm Quý Mão (1423), khi thực lực được củng cố, nghĩa quân Lam Sơn lại tiếp tục cuộc chiến nhưng vẫn khó khăn nhiều mặt, nhất là định hướng chiến trường phát triển cuộc khởi nghĩa. Nếu chỉ đứng chân ở vùng rừng núi Thanh Hóa thì cuộc khởi nghĩa không phát triển được, trước sau cũng bị quân Minh tấn công tiêu diệt.
Tiến về đồng bằng Thanh Hóa thì lực lượng quân Minh dày đặc, lại gần Tây Đô và Đông Quan là các căn cứ lớn của địch.Trước tình thế đó, Lê Lợi đã họp bàn bộ chỉ huy nhằm tìm hướng thoát ra khỏi bế tắc để tạo thế và lực phát triển cuộc khởi nghĩa.
Nhờ am hiểu nhiều về vùng Thanh – Nghệ, nắm rõ thế – lực của hai bên, với tầm nhìn sáng suốt, tướng Nguyễn Chích đã hiến kế: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông… Nay ta trước hãy đánh lấy đất Trà Long, chiếm giữ cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực, tài lực đất ấy mà quay ra Đông Đô, thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ” (Cương mục).
Nghệ An, sau kháng chiến của nhà Hậu Trần, đã bị quân Minh bình định nhưng chúng chưa kịp hoàn thiện bộ máy kìm kẹp như từ Thanh Hóa trở ra. Phía nam, vùng Châu Hóa, lực lượng của chúng cũng mỏng hơn. Nghệ An lại xa Tây Đô và Đông Quan, khả năng tiếp ứng của địch hạn chế hơn. Hơn nữa, nhân dân Nghệ An có truyền thống đấu tranh kiên cường, đang căm thù giặc cao độ vì bị đàn áp sau cuộc kháng chiến của Trần Quý Khoáng.
Kế hoạch chuyển hướng chiến lược của Nguyễn Chích được Lê Lợi và bộ chỉ huy Lam Sơn chấp thuận. Ngày 20 tháng Chín năm Giáp Thìn (1424), nghĩa quân Lam Sơn bất ngờ tấn công đồn Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hóa) để khai thông đường vào Nghệ An. Trên đường tiến vào Trà Lân, nghĩa quân tiếp tục đánh thắng ở trang Trịnh Sơn (nay thuộc xã Thạch Ngàn – Con Cuông) – tiền đồn phía Đông Bắc của thành Trà Lân/Long.
Tháng 10, nghĩa quân bắt đầu bao vây thành Trà Lân đồng thời chốt chặn phòng địch từ thành Nghệ An và Diễn Châu lên ứng cứu. Sau hai tháng bị vây hãm, lại không có viện binh, Cầm Bành và toàn bộ quân lính phải mở thành đầu hàng. Cả một vùng rộng lớn ở miền Tây Nghệ An được giải phóng, nhân dân hồ hởi hưởng ứng.Mùa xuân năm Ất Tỵ (1425), địch tập trung lực lượng từ Đông Quan và thành Nghệ An phản công hòng lấy lại thành Trà Lân.
Đại quân ta lập trận địa phục kích ở Khả Lưu, Bồ Ải – những vị trí hiểm yếu trên đường lên thành Trà Lân. Thắng lớn trận này, nghĩa quân khai thông đường tiến xuống đồng bằng Nghệ An. Giặc Minh lâm vào thế bị động, phải “đóng giữ cửa thành bền chặt”.
Nghĩa quân tiến xuống bao vây thành Nghệ An và tiến sang Đỗ Gia (Hương Sơn) xây dựng căn cứ địa ở Động Tiên Hoa/ Đãng Phủ – vùng ngã ba sông Khuất (hói Nầm) và Ngàn Phố. Tại đây, nghĩa quân được nhân dân nghênh đón, ủng hộ sức người sức của.
Ngày 27 tháng Tư năm Ất Tỵ (14/5/1425), quân ta lập trận địa phục kích tiêu diệt gần hết quân địch ở thành Nghệ An và quân tăng viện từ Đông Quan phản kích lên căn cứ Đỗ Gia.
Sau chiến thắng Đỗ Gia, nghĩa quân chuyển đại bản doanh về Thành Lục Niên trên núi Thiên Nhận (Thiên Nhẫn). Đến đây, trừ hai thành đang bị bao vây cô lập, toàn bộ Nghệ An, Diễn Châu được giải phóng. Nghĩa quân thừa thắng tiến ra giải phóng Thanh Hóa, tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa.
Tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), quân Lam Sơn tấn công ra Bắc. Cuối năm Đinh Mùi (1427), với trận thắng Chi Lăng – Xương Giang, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống nhà Minh kết thúc.
Năm Mậu Thân (1428), vương triều Hậu Lê được thiết lập.Năm Kỷ Dậu (1429), Nguyễn Chích được phong tước Đình thượng hầu, được ban quốc tính.Năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tông nối ngôi Thái Tổ. Lê Chích được phục chức làm Đồng tổng quản châu Hóa, trấn thủ Thát Ải.
Tại đây, ông đã hai lần đánh thắng quân Chiêm Thành ra cướp phá và hai lần đi đánh Chiêm Thành, được phong tước Đình hầu.Tháng chạp năm Mậu Thìn (1448), Nguyễn Chích mất, thọ 67 tuổi. Lê Nhân Tông truy tặng ông làm Nhập nội tư không bình chương sự, Hiến quốc công, thuỵ hiệu là Trinh Vũ.
Thời Nguyễn, Gia Long liệt ông vào làm bậc công thần khai quốc nhà Lê.Từ trước đến nay, các sử gia đều tôn vinh là vị tướng – chiến lược gia xuất sắc bậc nhất của nghĩa quân Lam Sơn.
Đội quân chim bồ độc nhất vô nhị câu sánh ngang thiên binh vạn mã của Nguyễn Chích
Bố của Nguyễn Chích là một người rất thích chim bồ câu. Để thỏa mãn đam mê, ông đã nuôi một đàn và chăm sóc chúng như con mà chăm sóc cũng như huấn luyện. Ngày ông mất, tưởng chừng như đàn chim sẽ tiêu tan vì không ai chăm nom, nuôi dưỡng. Nguyễn Chích lúc ấy vẫn còn nhỏ, cuộc sống lại khó khăn, một mình bươn chải nuôi thân đã khổ cực huống hồ còn phải chăm sóc thêm “đàn em” thơ dại này.
Thế nhưng, không chỉ chăm sóc tốt đàn chim bồ câu, Nguyễn Chích thậm chí còn đối đãi với chúng như là những đứa em của mình. Ngày ngày chăm cho đàn em, ông đã phát hiện ra một khả năng thú vị của chúng đó chính là tìm đường rất chuẩn xác.
Lấy làm hứng thú, Nguyễn Chích đã huấn luyện cho đàn chim dù có bị đưa đi xa đến đâu thì vẫn tìm được đường về nhà. Sau một thời gian kiên nhẫn, đàn chim câu của ông có thể bay đến những địa điểm cách điểm xuất phát hàng chục cây số mà vẫn tìm được đường về. Thật không ngờ, những người “anh em” này lại giúp ông trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Theo các sử sách ghi lại, trong một lần Lê Lợi cử các tướng dẫn quân chiếm cứ một vài địa điểm trọng yếu và chỉ giữ lại một ít tướng sỹ bên cạnh mình. Bất ngờ, giặc Minh kéo tới đánh úp đại bản doanh của của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, tình hình càng ngày càng thêm nguy cấp, giặc bủa vây tứ phía, chặn hết các ngả đường lối đi không thể nào thoát thân ra được. Lúc này, Nguyễn Chích mới cho những chú chim bồ câu của mình về báo tin với trạm đóng quân gần nhất ở đó. Trong ứng, ngoài hợp cùng nhau quyết chiến đánh tan vòng vây thoát hiểm.
Tướng giặc thấy nghĩa quân Lam Sơn đánh ra thì vội mừng thầm, tưởng lần này sẽ giết chết được Bình Định Vương. Nhưng chưa kịp vui thì chúng đã hồn siêu phách lạc khi bất ngờ thấy một đoàn quân lớn mọc lên đánh úp chúng từ phía sau. Thế trận bỗng chốc đổi chiều hoàn toàn khiến quân địch hoảng loạn, cuống cuồng tháo chạy.
Vừa thoát nguy lại thắng một trận giòn giã, Lê Lợi rất khâm phục khả năng huấn luyện chim câu đưa tin của Nguyễn Chích. Đồng thời, để tỏ lòng cảm phục những chiến binh đặc biệt này, đích thân Bình Định Vương đã lấy thóc tẩm mật ong cho bồ câu ăn để khỏe mạnh hơn, giúp nghĩa quân đánh giặc.
Hosodanhnhan.com