Đối với xã hội nông nghiệp Việt Nam thời phong kiến, công cuộc đạc điền và lập địa bạ là một khâu rất quan trọng trong việc quản lý ruộng đất. Đến triều Nguyễn, đất nước Việt Nam từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau đã thống nhất về hành chính, việc lập địa bạ mang tính quy mô và nhất quán trên toàn quốc. Từ năm Gia Long thứ 4 (1805) đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà Nguyễn đã tiến hành thực hiện nhiều đợt bao đạc (lập địa bạ) ở 29 tỉnh trên toàn đất nước, trước tiên bắt đầu ở các phủ huyện từ Quảng Bình đến Bình Hòa, rồi dần dần tiến ra miền Bắc. Sổ địa bạ được ghi chép bằng chữ Hán và theo một thể thức thống nhất: Mỗi mảnh ruộng đất phải ghi rõ diện tích, vị trí, cách sử dụng, loại hạng và sở hữu chủ.
Trong kho tàng di sản văn hóa và lịch sử Hán-Nôm của dân tộc ta, có thể nói các sổ Địa bạ được thực hiện dưới triều Nguyễn là phần đồ sộ nhất còn lưu lại. Trước năm 1945, sưu tập này để tại Tàng Thư Lâu trong kinh thành Huế. Năm 1959 tất cả tài liệu, thư tịch của triều đình Huế được chuyển lên Văn khố Đà Lạt. Năm 1975, số tư liệu này lại được đưa về bảo quản tại Kho Lưu trữ Trung ương 2 tại TP. Hồ Chí Minh. Đến năm 1991, sưu tập Châu bản và Địa bạ cùng các tư liệu khác thuộc Tàng thư triều đình Huế lại được chuyển ra Hà Nội. Sau bao tang thương khói lửa, hiện nay, theo thống kê của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu (là tác giả công trình Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - được Giáo sư Trần Văn Giàu đánh giá là “một trong những công trình lớn nhất về khoa học lịch sử ở cuối thế kỷ XX của chúng ta”), Cục Lưu trữ Quốc gia còn bảo tồn được khoảng 16.000 quyển địa bạ cho 16.000 xã thôn trong tổng số 18.000 xã thôn thuộc 29 tỉnh toàn quốc đương thời. Số địa bạ này được nhà Nguyễn thực hiện trong suốt 31 năm, từ 1805 đến 1836, mới hoàn thành. Mỗi sổ địa bạ được chép tay bằng chữ Hán trên giấy tốt thành 3 bản: bản Giáp để ở Kinh, bản Ất để ở tỉnh và bản Bính để ở làng. Nếu so sánh với những loại tài liệu hành chính khác cũng của triều Nguyễn như Châu bản (những sớ tấu có ghi bút phê bằng son của vua) mà nay đã mười phần mất tám, thì sưu tập địa bạ còn lại khá đầy đủ. Đó là cả một kho tư liệu phong phú ghi chép khá chính xác về địa lý tự nhiên, địa lý hành chính, cách sử dụng đất đai, tình hình chiếm hữu ruộng đất, sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt nông nghiệp, địa danh, nhân danh… giúp ta hiểu được sâu sắc về nhiều mặt hệ thống làng xã Việt Nam ở thế kỷ XIX.
Tên làng xã Khánh Hòa hồi đầu thế kỷ XIX qua địa bạ
Trong số 16.000 quyển địa bạ đang được lưu trữ, hiện còn 275 quyển địa bạ của các làng xã thuộc tỉnh Khánh Hòa thời Nguyễn. So với số liệu trong hồ sơ kiểm kê trước đây của Trung tâm Lưu trữ quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh là còn bảo quản được 306 quyển thì nay mất 31 quyển. Các sổ địa bạ ở Khánh Hòa được lập năm Gia Long thứ 10 (1811). Về sau do có lẽ bị mối mọt nên phải sao chép lại nhiều lần để sử dụng. Hiện nay còn lại phần lớn là các bản truy dụng thực hiện năm Minh Mạng thứ 11 (1830) và các bản tái sao năm Tự Đức thứ 26 (1873).
275 quyển địa bạ của Khánh Hòa đã ghi chép về địa lý của 132 xã, 130 thôn, 3 xóm, 3 ấp, 3 lạch, 2 xứ, 1 phường, 1 sách. Ngoài ra, khi điều tra tứ cận còn thấy thêm được tên 15 xã thôn mất địa bạ. Như vậy, tổng số tên làng xã ở Khánh Hòa hồi đầu thế kỷ XIX còn bảo lưu được qua địa bạ là 290, số lượng tên làng xã bị mất chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ là 5,2% (16/306).
Qua sưu tập địa bạ, ta thấy làng Việt xưa thường có 2 loại tên gọi:
- Tên Hán - Việt (còn gọi là tên chữ, mỹ danh…): được dùng làm tên chính thức, được ghi chép vào danh sách làng xã do chính quyền các cấp quản lý. Đa số các tên gọi này là các mỹ tự (có ý nghĩa đẹp, tốt) nhưng lại không phản ánh những đặc điểm của làng xã hoặc vùng cư trú nên có thể đặt cho bất cứ làng nào cũng được. Có những làng xã có nhiều tên gọi chính khác nhau trong suốt quá trình tồn tại của nó. Sự thay đổi này có nhiều nguyên nhân: do kiêng húy vua chúa, do làng bị di dời buộc phải thay tên cũ, tên cũ không phù hợp nên đổi tên khác…
- Tên Nôm (còn gọi là tên tục, tục danh): được xem là tên phụ (tuy lúc đầu có thể là tên chính), chỉ lưu truyền trong nhân dân, không được ghi vào sổ sách làng xã hoặc nếu có được ghi thì cũng không phải ở vị trí chính. Tên tục của làng thường xuất hiện cùng với việc lập làng, có nội dung mộc mạc, cụ thể, thường để chỉ phương vị, tính chất, nguồn gốc, đặc điểm của làng. Tên tục của làng thường xuất hiện trước tên chữ, nhưng cũng có trường hợp xuất hiện sau khi có tên chữ, nhất là với những làng có nghề thủ công phát triển hoặc đặc sản nổi tiếng. Tên tục của làng là tên gọi thân quen của dân làng, khó thay đổi, phần nhiều còn tồn tại dai dẳng trong ký ức dân gian đến ngày nay.
Tên làng ở Khánh Hòa cũng mang những đặc điểm chung của hệ thống tên làng xã cổ truyền Việt Nam. Những xã thôn ở các tổng (nơi thị tứ) thường lấy mỹ danh (tên Hán - Việt) làm địa danh hành chính chính thức, còn những làng ở các thuộc (vùng sâu vùng xa) vẫn giữ tục danh (tên Nôm). Tuy nhiên, đến thời kỳ thực hiện các sổ địa bạ này (nửa đầu thế kỷ XIX), phần lớn tên làng ở Khánh Hòa đã là tên Hán - Việt mang ý nghĩa hoa mỹ.
Trong 290 tên làng ở Khánh Hòa, có hơn 80% là tên Hán - Việt, gồm:
- 35 tên làng bắt đầu bằng chữ Phú (như Phú Lộc xã, Phú Mỹ xã, Phú Thạnh thôn, Phú Hội Tây thôn, Phú Vinh xã…)
- 28 tên làng bắt đầu bằng chữ An (như An Định xã, An Hòa thôn, An Phú Lộc Sơn thôn, An Thành xã…)
- 17 tên làng bắt đầu bằng chữ Phước (như Phước Hải thôn, Phước toàn phụ lũy xã, Phước Thọ xã…)
- 12 tên làng bắt đầu bằng chữ Mỹ (như Mỹ An thôn, Mỹ Cang thôn, Mỹ Chánh thôn…)
- 9 tên làng bắt đầu bằng chữ Xuân (như Xuân Mỹ thôn, Xuân Sơn ấp…), chữ Tân (như Tân An xã, Tân Lập thôn, Tân Thủy thôn…)
- 8 tên làng bắt đầu bằng chữ Vạn (như Vạn An Hương Thạnh thôn, Vạn Xuân xã…)
- 7 tên làng bắt đầu bằng chữ Đại (như Đại An xã, Đại Bình xã…)
- 6 tên làng bắt đầu bằng chữ Bình (như Bình An xã, Bình Hòa xã…), chữ Hà (như Hà Mai xã, Hà Diễn ấp), chữ Hội (như Hội Bình xã, Hội Sơn thôn…), chữ Thạnh (như Thạnh Mỹ phụ lũy xã, Thạnh Toàn…), chữ Vĩnh (như Vĩnh Lâm thôn, Vĩnh Phước thôn…).
- 5 tên làng bắt đầu bằng chữ Hoa (như Hoa Diêm thôn, Hoa Nông thôn…), chữ Trường (như Trường Lộc xã, Trường Cảnh Long thôn…)
- 4 tên làng bắt đầu bằng chữ Trung (như Trung An thôn, Trung Giang xã…), chữ Diêm (như Diêm Điền thôn).
- 3 tên làng bắt đầu bằng chữ Cù (như Cù Lao thôn), chữ Hương (như Hương Thạnh xã…), chữ Thạch (như Thạch Thành xã…), chữ Tứ (như Tứ Chánh thôn), chữ Võ (như Võ Cạnh Trung xã).
- 2 tên làng bắt đầu bằng chữ Hòa (như Hòa Vinh xã), chữ Lâm (như Lâm Toản thôn), Lương (như Lương Triều xã), chữ Sơn (Sơn Điền thôn), chữ Thanh (như Thanh Châu xã), chữ Thuận (như Thuận An xã), chữ Thủy (như Thủy Tú xã), chữ Toàn (như Toàn Lộc thôn), chữ Triều (như Triều Sơn xã)
- Các tên khác bắt đầu bằng chữ Bản (Bản Điền Tứ Chánh Tân Lập thôn), Bằng (Bằng An xã), Bích (Bích Đàm thôn),
Cường (Cường Lễ thôn), Đàm (Đàm Môn thôn), Định (Định An xã), Hải (Hải An thôn), Lộc (Lộc An thôn), Minh (Minh An thôn), Ngọc (Ngọc An thôn), Phụng (Phụng Toàn thôn), Quan (Quan Đông xã), Quang (Quang Hiện thôn), Tây (Tây An thôn), Thái (Thái An xã), Tiên (Tiên An thôn), Tiền (Tiền Cang thôn), Tuân (Tuân An thôn), Tư (Tư Điền Tứ Chánh thôn).
Số tên Nôm là địa danh hành chính chính thức được ghi trong địa bạ chỉ chiếm 18,6% (54/290), đa số là tên làng, xã ở các thuộc (các nơi gần núi rừng, dọc sông biển). Tuy nhiên, bên cạnh các tên làng Hán - Việt, người lập địa bạ vẫn chua thêm tên Nôm vốn là tục danh của các làng ấy mà nay đã bị các tên gọi chính thay thế trong danh sách làng xã. Mỗi tên làng Hán - Việt (tên chính) đều có ghi kèm từ 1 đến 2, 3 tên Nôm (tên phụ). Nhờ vậy số tên Nôm làng xã ở Khánh Hòa hồi đầu thế kỷ XIX còn bảo lưu được qua địa bạ là rất lớn. Đây là nguồn tư liệu cực kỳ quý báu để tìm hiểu sự hình thành và quá trình diễn biến các tên làng Việt cổ truyền ở Khánh Hòa cũng như mối quan hệ giữa tên Nôm và tên Hán - Việt qua cứ liệu địa danh làng xã.
Số tên Nôm này thường bắt đầu bằng các thành tố chung phản ánh nét đặc thù địa hình thiên nhiên nơi làng đó thành lập, như: Bãi (Bãi Lương thôn), Bàu (Bàu Than xứ), Bến (Bến Bùn thôn), Bờ (Bờ Đắp), Cát (Cát Nắm), Cây (Cây Sung thôn), Cỏ (Cỏ Bồng), Cồn (Cồn Cạn thôn), Cửa (Cửa Bé thôn), Dốc (Dốc Ké), Đá (Đá Bàn thôn), Đầm (Đầm Môn), Đầu (Đầu Cầu), Đồng (Đồng Dài thôn), Đường (Đường Đắp), Ghe (Ghe Gà xóm), Giếng (Giếng Cổng), Gò (Gò Muồng thôn), Hòn (Hòn Bông thôn), Hốc (Hốc Bò), Kẻ (Kẻ Thế), Láng (Láng Tràm tứ chánh xứ), Lỗ (Lỗ Mối), Luống (Luống Tranh), Lũy (Lũy Đá thôn), Mả (Mả Đắp), Mạn (Mạn Đò thôn), Mương (Mương Khai), Ngã (Ngã Ba xứ), Ngòi (Ngòi Láng thôn), Núi (Núi Sầm), Phường (Phường Câu), Quán (Quán Chùa thôn), Rừng (Rừng Cát), Sân (Sân Trâu), Sông (Sông Đá), Suối (Suối Nước thôn), Truông (Truông Chàm), Vũng (Vũng Sau), Vực (Vực Soi), Xóm (Xóm Đầm)…
Những thành tố chung được dùng nhiều nhất để đặt tên làng là Cây (118 địa danh), Gò (108 địa danh), Đồng (68 địa danh), Bàu (22 địa danh).
Cũng có những tên đất, tên làng mang ý nghĩa cụ thể, riêng biệt, chỉ gặp một lần, như: Măng Nội, Thị Nhong, Xe Nước, Lẵng Vàng, Vú Bò, Hùm Voi, Bồng Binh…
- Nhiều tên làng nửa Nôm nửa Hán như: Hà Dừa, Hà Ra, Hoa Bông…
- Vài tên làng có thể là tiếng dân tộc được ghi âm Hán - Việt như Ma Cà phụ lũy thôn, Na Cai thôn, Tà Á lạch.
NGUYỄN VIẾT TRUNG
baokhanhhoa.vn